Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

Tài liệu môn Tôn giáo và tín ngưỡng

Đề 1: Đ/c hãy trình bày, phân tích hai vấn đề sau:
1. Trình bày những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo.
2. Phân tích những nội dung cơ bản trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng tôn giáo.
BÀI LÀM
Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào những điều thiêng liêng huyền bí vượt khỏi thế giới tự nhiên còn tôn giáo là tín ngưỡng của những người cùng chung một tổ chức có hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi.
Hiện nay tín ngưỡng, tôn giáo đang là vấn đề sôi động trong mỗi nước và trên toàn thế giới, các thế lực thù địch đang tiếp tục thực hiện lợi dụng về vấn đề tôn giáo để tác động và can thiệp sâu vào công việc nội bộ của các nước. Do đó, việc đổi mới nhận thức, đánh giá và ứng xử đối với tôn giáo cần được đặt ra và sự đổi mới đó nhất thiết phải dựa trên những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng và nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
Khái niện về tôn giáo: là một hình thái ý thức XH, phản ánh sự tồn tại của XH, phản ánh hư ảo, hoang đường lệch lạc.
Bản chất của TG là một hình thái ý thức XH đặc biệt, nó phản ánh một cách hoang đường, hư ảo, lệch lạc hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Chính vì cái thật, cái ảo trong TG nó làm cho TG có sự đặc biệt và hấp dẫn. Cái thật và cái ảo luôn đan xen với nhau tạo nên sự hấp dẫn. TG luôn có tính hướng thiện và tính thủ tiêu ý chí. Sự hoang đường của TG do chính con người sáng tạo ra, thế giới hư ảo chưa ai nhìn thấy và cũng chưa ai chứng minh được.
Nguồn gốc của TG: có 3 nguồn gốc.
- Nguồn gốc KT-XH: Do trình độ sản xuất thấp dẫn đến con người cho rằng trong tự nhiên có những sức mạnh đặc biệt, sức mạnh siêu nhiên, thần bí mà con người không giải thích được; Trình độ sản xuất phát triển dẩn đến xuất hiện tư hữu và hình thành áp bức, bóc lột giữa người với người. Sức mạnh tự nhiên cộng với sức mạnh XH hàng ngày đè nặng lên con người, làm cho con người tin rằng, trong sự tồn tại của con người có số phận, có sức mạnh của thần linh. Cả hai vấn đề trên làm cho con người có niềm tin vào tôn giáo.
- Nguồn gốc về nhận thức: Duy vật đơn giản thì cho rằng, do ngu dốt nên nhận thức TG kém. Quy luật nhận thức có những khoảng trống mả chưa được lý giải nên cần có TG để giải thích các khoảng trống đó.
- Nguồn gốc tâm lý: do sự sợ hải trước những sức mạnh của tự nhiên và XH đã nãy sinh niềm tin TG; Sự thương tiếc, kính trọng, lòng biết ơn cũng làm nãy sinh niềm tin vào thế giới thần linh. VD: như việc thờ cúng tổ tiên, các anh hùng dân tộc.
Chức năng của tôn giáo: chức năng thế giới quan là xây dựng cho tín đồ nhận thức hiểu biết về thế giới quan thông qua giáo lý, giáo luật của các tôn giáo. Tuy nhiên cũng có những trường hợp nó làm hạn chế thế giới quan, như cãng trở về nhận thức một số trường hợp (cho rằng thần linh sáng tạo ra và quyết định thế giới); Chức năng điều chỉnh hành vi (hướng con người làm việc thiện, tránh việc ác); Chức năng đền bù hư ảo (đáp ứng nhu cầu niềm tin tạo sự thăng bằng tâm lý và vấn an con người); Chức năng liên kết cộng đồng: thông qua các hoạt động TG làm cho tín đồ hiểu nhau hơn, họ sẵn sàng chia sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tăng cường kết cấu cộng đồng; Chức năng chuyển giao văn hóa: TG khi du nhập sang vùng đất mới bao giờ cũng đem theo các giá trị văn hóa, nghệ thuật làm phong phú hơn văn hóa ở bản địa.
Từ bản chất, nguồn gốc và chức năng của tôn giáo, ta thấy rằng tôn giáo ra đời trong điều kiện lịch sử nhất định, tôn giáo bao giờ cũng biến động theo sự biến động của lịch sử. Tôn giáo có tính chất quần chúng, nó thâm nhập ăn sâu vào tâm tư tình cảm nhân dân qua nhiều thế hệ, tôn giáo ra đời là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng, chống áp bức bóc lột của giai cấp thống trị.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam. Nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là: Đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc; Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân;
- Đoàn kết lương - giáo là đoàn kết giữa những người cộng sản với những người có tín ngưỡng tôn giáo; giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo với những người không có tôn giáo.  Vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự nghiệp chung không phải của riêng ai. Trong tư tưởng đoàn kết lương - giáo, Người chỉ rõ: Phải đặt lợi ích dân tộc, lợi ích tổ quốc lên trên hết; Phải kế thừa những giá trị nhân bản của tôn giáo, tranh thủ các giáo sĩ quan tâm đến giáo dân. Đất nước Việt Nam đã thống nhất thì HCM muốn Tg cũng phải thống nhất độc lập, không còn phụ thuộc vào Tòa thánh Vati căn; Đồng thời không chỉ đoàn kết những người có đạo và không có đạo mà còn giáo dục tinh thần đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau.
-Về tự do TG-tín ngưỡng, Người tôn trọng tự do tư tưởng, tôn trọng đức tin của mỗi người. Mọi công dân tin hay không tin tôn giáo đều được bình đẳng trên mọi lĩnh vực trước pháp luật. Đối với người sáng lập ra tôn giáo, Bác có thái độ tôn trọng, kính phục và khuyên mọi người theo gương các vị ấy đã sáng lập ra những tôn giáo lành mạnh trong việc đấu tranh giải phóng con người, hoàn thiện nhân cách con người. Đối với các giáo sĩ đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử cụ thể, phải phân biệt nhà tu hành chân chính với kẻ đội lốt thầy tu để phản nước hại dân. Vì vậy các giáo hội phải cùng nhân dân tham gia kháng chiến. Chủ tịch HCM tiến hành nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn những biểu hiện vi phạm tín ngưỡng tôn giáo chống những hoạt động lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo, đồng thời nghiêm khắc phê phán những sai phạm về chính sách tôn giáo.Thực hiện mối liên hệ giữa tôn giáo và dân tộc, đức tin và lòng yên nước, đồng thời chống lại những âm mưu lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng
Phương pháp thực hiện chính tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết là phải hiểu rồi mới tin. Phải nghiên cứu thực tế, hiểu phong tục, tập quán, truyền thống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân để gây tình cảm cho quần chúng. Phải chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo nổi lên quan điểm chính là: cần có một chiến lược về tôn giáo nói chung và về các tôn giáo riêng lẻ nói riêng. Phát huy bản sắc dân tộc trong các tôn giáo. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, cho nên phải xem trọng đoàn kết các tôn giáo khác nhau, phải coi có tính chiến lược. Vấn đề quan trọng là khai thác mặt tương đồng là cơ bản, làm giảm tối đa sự dị biệt. Tỉnh táo chống lại mưu đồ lợi dụng tôn giáo để chống lại nhân dân.
3. Những nội dung cơ bản trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo.
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Đến năm 1990, Đảng Cộng sản Việt Nam có sự đổi mới trong chính sách đối với tôn giáo qua Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) "Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới". Đảng ta xác định tôn giáo là vấn đề còn tồn tại và lâu dài và thừa nhận đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng XH mới. Nội dung cốt lỏi của công tác TG là vận động đồng bào có đạo nêu cao tinh thần yêu nước, làm tốt công tác TG là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau 13 năm thực hiện chính sách đổi môi đối với tôn giáo, tổng kết thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề mới nẩy sinh, trong bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều thay đổi quan trọng, ngày 12-3-2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo. Văn kiện đã trở thành nền tảng chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Tư tưởng của Nghị quyết 25 được thể hiện qua các nội dung mới là:
-Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
-Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
-Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
-Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo cũng như bỏ đạo.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã lý giải vấn đề TG một cách có khoa học khách quan đúng đắn, làm nền tảng tư tưởng để từ đó Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương chính sách về TG, giải quyết được những vấn đề tư tưởng của nhân dân có đạo, thực hiện được đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Là cán bộ Đảng viên đặc biệt là cán bộ quản lý cần phải nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, TG để làm nền tảng tư tưởng trong mọi hoạt động, đồng thời thực hiện tốt chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác TG, nhằm góp phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh".

ĐỀ 2: Đ/c hãy trình bày, phân tích hai vấn đề sau:
1. Trình bày những đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
2. Phân tích những vấn đề mới trong nhận thức và thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta hiện  nay.  
BÀI LÀM
Tín ngưỡng, tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia trong đó có Việt nam.
1. Đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay:
Người Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo hết sức phong phú, điều đó xuất phát từ vị trí địa lý Việt Nam nằm giữa trung tâm của Đông Nam Á nên có điều kiện để tiếp nhận và giao lưu các luồng tư tưởng, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, nhất là hai nền văn minh lớn của loài người là Trung Hoa và Ấn Độ. Mặt khác lịch sử Việt Nam còn là lịch sử chống ngoại xâm, những người có công lớn trong việc giúp dân, cứu nước được cả cộng đồng tôn sùng, tưởng nhớ, thờ phụng và gắn cho họ những sức mạnh siêu nhiên. Chính những đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hóa ấy đã có ảnh hưởng lớn đến đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
*Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo:
- Do điều kiện địa lý nước ta là nơi thuận lợi cho việc giao lưu của nhiều luồng tư tưởng, văn hóa khu vực và thế giới, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn minh lớn Trung Hoa và Ấn Độ, đồng thời là một nước có 54 dân tộc cư trú ở nhiều khu vực với điều kiện tự nhiên, khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau nên Việt Nam có điều kiện du nhập nhiều tín ngưỡng tôn giáo lớn trên thế giới. Hơn nữa, bản tính người Việt vốn cởi mở, khoan dung nên cùng một lúc họ có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, cùng tồn tại bên cạnh tín ngưỡng dân gian, bản địa của nhiều dân tộc, bộ tộc. Ước tính hiện nay ở Việt nam có rất nhiều loại tín ngưỡng được chia làm 3 nhóm, cụ thể:
+ Nhóm tín ngưỡng phồn thực là thờ cúng sự sinh sôi, nảy nở, giao phối (Thờ cơ quan sinh dục nam, nữ, thờ nghi thức lễ hội phồn thực;
+ Nhóm tín ngưỡng sùng bái tự nhiên; thờ tam phủ, tứ phát.
+ Nhóm tín ngưỡng sùng bái con người. thờ những người có công với nước.
- Về tôn giáo, bên cạnh những tôn giáo lớn như Phật giáo, Hồi giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo. Việt Nam  còn có thêm 6 tôn giáo mới được Nhà nước công nhận chính thức là Tịnh độ cư sỹ Phật hội Việt Nam, Baha’i, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Huơng, Giáo hội Phật đường Nam tông Minh sư đạo Việt Nam, Minh lý đạo- Tam tông miếu. Trong các tôn giáo truyền thống ở Việt Nam hiện nay thì Phật giáo xuất hiện lâu đời nhất, có nhiều tín đồ nhất và đang là tôn giáo có ảnh hưởng khá lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
* Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có tính khoan dung, hòa đồng
Với bản tính cởi mở, khoan dung, đồng thời do phải đoàn kết chống giặc ngoại xâm và chống chọi với thiên nhiên, người Việt rất dễ tiếp nhận các loại văn hóa tín ngưỡng tôn giáo miễn sao nó không đi ngược lại lợi ích dân tộc, đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Đồng thời, nó cũng phải thay đổi cho phù hợp với phong tục tập quán tuỳ ý của người Việt mà trước hết phải được sự khảo nghiệm của lịch sử dựng nước và giữ nước, sau nữa, phải tôn trọng tôn giáo truyền thống và hòa đồng với tín ngưỡng bản địa. Tính đan xen, hoà đồng của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt nam thể hiện ở chỗ:
Trên điện thờ của môt số tôn giáo có sự xuất hiện của rất nhiều vị thánh, tiên, thần, phật của nhiều tôn giáo khác nhau, ví dụ như đạo Cao đài
Đối với người Việt nam rất khó xác định đâu là tiêu chuẩn tôn giáo cụ thể của họ. Cùng một lúc họ có thể theo tôn giáo và theo nhiều tín ngưỡng khác nhau.
Ở Việt Nam có nhiều chức sắc, tín đồ, họ không chỉ am hiểu giáo lý giáo luật của tôn giáo mà họ tin theo mà họ còn am hiểu giáo lý giáo luật của các tôn giáo khác.
* Tính trội của yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Đặc điểm này xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Việt nam là một nước nông nghiệp nên yếu tố âm - đất - mẹ được người Việt nam quan niệm tượng trưng cho ý thức cộng đồng.
Ở Việt nam phụ nữ có vai trò rất lớn trong gia đình và ngoài xã hội.
Chế độ mẫu hệ ở nước ta kéo dài dai dẳng, đến nay vẫn chưa kết thúc.
Chính vì vậy trong hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt nam xuất hiện rất nhiều các vị thánh thần là nữ, từ Bắc đến Nam ở đâu cũng có nơi thờ tự nữ thần: Phật Bà, Thánh Mẫu ... như Đền thờ Bà chúa Kho (Bắc Ninh), Bà chúa Liễu ở Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Bà chúa Đen (Tây Ninh), Bà chúa Sứ (An Giang).         
* Thần thánh hóa những người có công với gia đình, làng, nước.
Xuất phát từ một nước có truyền thống dựng và giữ nước lâu dài với bề dày lịch sử chống giặc ngoại xâm, Việt Nam có rất nhiều những anh hùng dân tộc, có công với dân, với nước. Ngoài đặc điểm chung của xã hội phương Đông hay suy tôn cá nhân thành người đại diện tối cao của cả cộng đồng, quốc gia, người Việt còn mang đức tính yêu nước, trọng tình “uống nước, nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam cũng thấm đượm tinh thần ấy. Những người có công với gia đình, làng xóm, đất nước đều được người Việt Nam tôn vinh, sùng kính và thần thánh hóa hóa để cầu khẩn sự phù hộ và tìm sự che chở trong bản thân gia đình và cộng đồng.
* Đa số tín đồ tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị phong kiến đô hộ lâu dài với một trình độ dân trí thấp, vì vậy những người nông dân tiếp nhận tôn giáo thông qua lăng kính của người sản xuất nhỏ cộng với trình độ ít hiểu biết.
* Tôn giáo ở Việt nam luôn là lĩnh vực mà các thế lực tìm cách lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị
- Khai thác những thiếu sót trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở cơ sở để xuyên tạc tình hình tôn giáo ở nước ta nhằm vu khống ta vi phạm tự do tôn giáo, tự do nhân quyền.
- Thao túng và lợi dụng các diễn đàn quốc tế, các tổ chức quốc tế để thông tin sai lạc về tình hình tôn giáo ở nước ta nhằm cô lập ta trên trường quốc tế.
- Lôi kéo, mua chuộc, nuôi dưỡng các phần tử cực đoan ly khai trong các tôn giáo ở trong và ngoài nước.
- Khai thác lợi thế của một nước có tiềm lực về kinh tế và quân sự. VD: năm 1998 Mỹ lập ra Ủy ban xem xét các chính sách TG của các nước, trong đó có Việt nam.
- Tìm cách chính trị hoá vấn đề tôn giáo, nhất là tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, luôn gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc.
Các "điểm nóng" về tôn giáo trong thời gian gần đây như các hoạt động trái phép nhằm lập ra tổ chức đạo "Tin lành Đề Ga" ở Tây Nguyên.. đã phản ánh điều đó. Hiệu ứng tiêu cực của các hoạt động đó là sự mất ổn định trong đời sống dân cư, gây chia rẽ từ trong nội bộ gia đình, làng xóm, thôn bản, chia rẽ dân tộc này với dân tộc khác, làm phương hại đến tình hình kinh tế, an ninh, trật tự xã hội, khối đoàn kết dân tộc.
         2. Phân tích những vấn đề mới trong nhận thức và thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay.        
Ở nước ta hiện nay, trong bối cảnh đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới nhằm tíên tới xây dựng thành công CNXH, xuất phát từ sự đa dạng về đời sống tín ngưỡng, tôn giáo và những đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thì vấn đề đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng không thể thiếu để tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Điều này thể hiện rõ trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh và trong các Văn kiện của Đảng và nhà nước ta, đặc biệt là các Văn kiện của đảng ta thời kỳ đổi mới đã nêu lên nhiều tư tưởng mới.
Văn kiện Đại hội IX đã chỉ rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời, đẹp đạo", phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia”.
Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục bổ sung và phát triển những tư tưởng trên trong tình hình mới và khẳng định: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc.Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền  sinh hoạt tôn gíao bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”.
Với quan điểm đó, chính sách tự do tôn giáo ở nước ta những năm qua đã thu được những kết quả to lớn, được sự tiếp nhận ngày càng tốt hơn từ phía giới tôn giáo và sự ủng hộ của nhân dân nói chung đồng thời cũng được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như Việt Nam nhưng đến nay vẫn là một bức tranh sinh hoạt tôn giáo yên bình, hòa đồng và ngày càng tỏ ra thích ứng với Chủ nghĩa xã hội là một thành tựu lớn xác định tính đúng đắn hợp lý trong đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta. Nhiều thập kỷ nay, đường hướng hành đạo: Sống phúc âm trong lòng dân tộc (Công giáo); Dân tộc, Đạo pháp và CNXH (Phật giáo). Nước Vinh, đạo Sáng (Hoà Hảo); Sống Phúc Âm, phụng sự thiên chúa, phụng sự dân tộc của đạo Tin lành... đã và đang đang được khẳng định, nhiều cộng đồng tôn giáo đã thực sự găn bó với dân tộc, thực hiện đường hướng tốt Đời, đẹp Đạo.
       * Căn cứ vào chủ trương, đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, cũng như tình hình đất nước ta hiện nay, chúng ta cần tập trung vào các vấn đề sau :
Một là, ở một nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo như Việt Nam thì tín đồ các tôn giáo phải luôn đặt lợi ích dân tộc, quốc gia lên trên hết và phấn đấu vì mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nhà nước không phân biệt đối xử về nghĩa vụ và quyền lợi công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, phát huy tính khoan dung, hòa  đồng giữa các tôn giáo nhằm đoàn kết các tôn giáo để  bảo đảm ổn định chính trị xã hội.
Ba là, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào có đạo, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, vùng sâu vùng xa nơi đồng bào tín đồ các tôn giáo đang gặp nhiều khó khăn. Trên cơ sở không ngừng phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo cho nhân dân một cơ sở  xã hội hiện thực để họ yên tâm, tin tưởng vào xã hội mới;
Bốn là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng luôn đề cao cảnh giác chống những âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
       Với những quan điểm và chính sách dân tộc và tín ngưỡng tôn giáo đúng đắn đang đi vào cuộc sống, chúng ta tin rằng, cộng đồng các dân tộc và tôn giaó ở nước ta sẽ phát huy tinh thần đoàn kết, góp phần xây dựng đất nước theo con đường dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.

ĐỀ 3: Bằng kiến thức về tín ngưỡng, tôn giáo và thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta, đồng chí hãy phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết các dân tộc”. Rút ra giá trị của những luận điểm này trong công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay.
(Trích: Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội-2003, trang 48).
BÀI LÀM:
Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào những điều thiêng liêng, huyền bí vượt khỏi thế giới tự nhiên. Còn Tôn giáo là tín ngưỡng của những người cùng chung một tổ chức có hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi. Trong thời đại ngày nay, tín ngưỡng, tôn giáo không những không mất đi, mà ngược lại còn phát huy vai trò to lớn và đang tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nêu ra luận điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Để làm rõ luận điểm trên của Đảng ta, trước tiên ta cần phân tích một số nội dung về quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, về bản chất, tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, tôn giáo ra đời có 3 nguồn gốc cơ bản:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trình độ sản xuất thấp, con người bất lực trước tự nhiên. Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp hành thành, xuất hiện nạn áp bức bóc lột giữa người với người. Bên cạnh sức mạnh tự nhiên chưa được lý giải, lại xuất hiện sức mạnh xã hội đè nặng lên cuộc sống của con người, con người tin rằng có sự quyết định số phận từ thần thánh, đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức: Ở một giai đoạn lịch sử nhất định thì nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân của con người cũng có giới hạn. khoảng cách giữa biết và chưa biết vẫn tồn tại, điều gì mà khoa học lúc bấy giờ chưa thể giải thích được thì điều đó thường được giải thích một cách hư ảo qua các tôn giáo.
- Nguồn gốc tâm lý: Tâm lý sợ hãi, khuất phục trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội đã sinh ra niềm tin tôn giáo. Mặt khác những tình cảm tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu thương... trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người cũng được thể hiện qua các hình thức tín ngưỡng tôn giáo.   
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo có các chức năng: Chức năng thế giới quan; Chức năng đền bù hư ảo; Chức năng điều chỉnh hành vi; Chức năng liên kết; Chức năng chuyển giao văn hóa. Với những chức năng này, tôn giáo một mặt phát huy vai trò tích cực của nó, trở thành niềm tin và lý tưởng sống tốt đẹp của con người, nhưng đồng thời, tôn giáo cũng bộc lộ những mặt hạn chế của nó là gò bó con người, làm cho con người lệ thuộc vào những lực lượng bên ngoài; làm mờ nhạt ý thức đấu tranh, ý chí tự chủ vươn lên, ý thức trách nhiệm của con người, làm cho con người nghèo đi; dễ bị lợi dụng vì những mục đích đen tối.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là: Đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc; tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
- Đoàn kết lương giáo là đoàn kết giữa những người cộng sản với những người có tín ngưỡng tôn giáo, giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau và giữa những người có tín ngưỡng với những người không có tín ngưỡng đây là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh.
- Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tôn trọng đức tin của mỗi người. Người chỉ rõ: Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào. Mọi công dân có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều được hưởng mọi quyền lợi của người công dân và phải thực hiện mọi nghĩa vụ của người công dân. Tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Về luận điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng đến cả nếp nghĩ, lối sống của cả một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ. Nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
Ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, với những lợi ích khác nhau của các tầng lớp xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... vẫn là một thực tế, hiện tượng bóc lột vẫn còn tồn tại, tình trạng phân hóa giàu nghèo vẫn chưa được khắc phục, đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn trong tình trạng bấp bênh… tất cả những điều này dễ làm cho người ta có tâm lý thụ động, trông chờ, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
Hoạt động tôn giáo có khả năng đáp ứng ở mức độ nào đó nhu cầu văn hóa, tinh thần và còn có ý nghĩa nhất về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Vả lại, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư và do đó sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội khách quan.
Tuy ngày nay, những tiến bộ vượt bậc của khoa học đã giúp cho con người có những khả năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song thế giới vật chất vô cùng, vô tận, đa dạng, phong phú, còn đặt ra nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội nhiều khi còn tác động rất nghiêm trọng và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, bất an, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng ở thần, phật, thánh,... chưa thể gạt bỏ hết khỏi ý thức của nhiều người trong xã hội.
Tuy nhiên, sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong Xã hội chủ nghĩa cũng có những đặc điểm riêng. Trước hết, giai cấp công nhân lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng của mình, vì vậy, việc truyên truyền và giáo dục chủ nghĩa duy vật mác xít trong xã hội là cần thiết. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa phải đề ra chính sách đối với tôn giáo trên nguyên tắc không chỉ tôn trọng, bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng mà còn đảm bảo quyền tự do không tín ngưỡng của công dân.
Về luận điểm:Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc”.
Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, chính sách "tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết" do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho đất nước.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã có nhiều tín đồ trở thành đảng viên cộng sản, thành những chiến sĩ kiên cường, dũng cảm hy sinh cho Tổ quốc, nhiều nhà sư, linh mục đi theo kháng chiến, nhiều chùa chiền và thánh thất là nơi nuôi giấu, che chở cho cán bộ cách mạng. Ngày nay, các tổ chức giáo hội đều tuân theo Hiến pháp và pháp luật, đều mong muốn đất nước được ổn định và phát triển. Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung, các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đường hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật; các tôn giáo được Nhà nước công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Do vậy đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề tôn giáo vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số người chưa tuân thủ pháp luật, còn tổ chức truyền đạo trái phép; còn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp. Ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị.
Trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: “:Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Có thể khái quát những nội dung trong quan điểm đổi mới của đảng ta qua các văn kiện chính thức như sau:
1. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với cơng dn vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
3. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
4. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
5. Vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo qui định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động tôn giáo theo pháp luật qui định và được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các qui định của Hiến pháp và pháp luật.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin đã lý giải vấn đề tôn giáo một cách có khoa học, khách quan, đúng đắn, làm nền tảng tư tưởng để từ đó Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương chính sách về tôn giáo, giải quyết được những vấn đề tư tưởng của nhân dân có đạo, thực hiện được đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Là cán bộ, đảng viên đặc biệt là cán bộ quản lý cần phải nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tín ngưỡng, tôn giáo để làm nền tảng tư tưởng trong mọi hoạt động, đồng thời thực hiện tốt chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo, nhằm góp phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đề 4: Đồng chí hãy căn cứ vào lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng HCM về tín ngưỡng tôn giáo và thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta để làm rõ luận điểm sau đây của Đảng ta: “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bào quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt  đẹp của các tôn giáo” (Văn kiện đại hội X). Rút ra giá trị của những luận điểm này trong công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay.
Bài làm
Việt Nam là một nước đa tín ngưỡng, tôn giáo với khoảng hơn 20 triệu tín đồ theo các tôn giáo khác nhau. Từ xưa đến nay, các tín ngưỡng, tôn giáo luôn chung sống hoà hợp, gắn bó với dân tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, các dân tộc đã kề vai, đoàn kết bên nhau đấu tranh giành độc lập dân tộc, tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả 54 dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã hình thành một truyền thống tốt đẹp từ ngàn xưa, đó là xây dựng cuộc sống đan xen, hoà bình, trong đó mỗi dân tộc đều có tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán và văn hoá khác nhau góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam. Trước khi phân tích luận điểm trên của Đảng ta, cần phân tích một số nội dung liên quan đên những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
Khái niện về tôn giáo: là một hình thái ý thức XH, phản ánh sự tồn tại của XH, phản ánh hư ảo, hoang đường lệch lạc.
Bản chất của TG: là một hình thái ý thức XH đặc biệt, nó phản ánh một cách hoang đường, hư ảo, lệch lạc hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Chính vì cái thật, cái ảo trong TG nó làm cho TG có sự đặc biệt và hấp dẫn. Cái thật và cái ảo luôn đan xen với nhau tạo nên sự hấp dẫn. TG luôn có tính hướng thiện và tính thủ tiêu ý chí. Sự hoang đường của TG do chính con người sáng tạo ra, thế giới hư ảo chưa ai nhìn thấy và cũng chưa ai chứng minh được.
Nguồn gốc của TG: có 3 nguồn gốc.
- Nguồn gốc KT-XH: Do trình độ sản xuất thấp dẫn đến con người cho rằng trong tự nhiên có những sức mạnh đặc biệt, sức mạnh siêu nhiên, thần bí mà con người không giải thích được; Trình độ sản xuất phát triển dẩn đến xuất hiện tư hữu và hình thành áp bức, bóc lột giữa người với người. Sức mạnh tự nhiên cộng với sức mạnh XH hàng ngày đè nặng lên con người, làm cho con người tin rằng, trong sự tồn tại của con người có số phận, có sức mạnh của thần linh. Cả hai vấn đề trên làm cho con người có niềm tin vào tôn giáo.
- Nguồn gốc về nhận thức: Duy vật đơn giản thì cho rằng, do ngu dốt nên nhận thức TG kém. Quy luật nhận thức có những khoảng trống mà chưa được lý giải nên cần có TG để giải thích các khoảng trống đó.
- Nguồn gốc tâm lý: do sự sợ hải trước những sức mạnh của tự nhiên và XH đã nãy sinh niềm tin TG; Sự thương tiếc, kính trọng, lòng biết ơn cũng làm nãy sinh niềm tin vào thế giới thần linh. VD: như việc thờ cúng tổ tiên, các anh hùng dân tộc.
Chức năng của tôn giáo: chức năng thế giới quan là xây dựng cho tín đồ nhận thức hiểu biết về thế giới quan thông qua giáo lý, giáo luật của các tôn giáo. Tuy nhiên cũng có những trường hợp nó làm hạn chế thế giới quan, như cãng trở về nhận thức một số trường hợp (cho rằng thần linh sáng tạo ra và quyết định thế giới); Chức năng điều chỉnh hành vi (hướng con người làm việc thiện, tránh việc ác); Chức năng đền bù hư ảo (đáp ứng nhu cầu niềm tin tạo sự thăng bằng tâm lý và vấn an con người); Chức năng liên kết cộng đồng: thông qua các hoạt động TG làm cho tín đồ hiểu nhau hơn, họ sẵn sàng chia sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tăng cường kết cấu cộng đồng; Chức năng chuyển giao văn hóa: TG khi du nhập sang vùng đất mới bao giờ cũng đem theo các giá trị văn hóa, nghệ thuật làm phong phú hơn văn hóa ở bản địa.
Từ bản chất, nguồn gốc và chức năng của tôn giáo, ta thấy rằng tôn giáo ra đời trong điều kiện lịch sử nhất định, tôn giáo bao giờ cũng biến động theo sự biến động của lịch sử. Tôn giáo có tính chất quần chúng, nó thâm nhập ăn sâu vào tâm tư tình cảm nhân dân qua nhiều thế hệ, tôn giáo ra đời là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng, chống áp bức bóc lột của giai cấp thống trị.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam. Nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là: Đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc; Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân;
- Đoàn kết lương - giáo là đoàn kết giữa những người cộng sản với những người có tín ngưỡng tôn giáo; giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo với những người không có tôn giáo.  Vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự nghiệp chung không phải của riêng ai. Trong tư tưởng đoàn kết lương - giáo, Người chỉ rõ: Phải đặt lợi ích dân tộc, lợi ích tổ quốc lên trên hết; Phải kế thừa những giá trị nhân bản của tôn giáo, tranh thủ các giáo sĩ quan tâm đến giáo dân. Đất nước Việt Nam đã thống nhất thì HCM muốn Tg cũng phải thống nhất độc lập, không còn phụ thuộc vào Tòa thánh Vati căn; Đồng thời không chỉ đoàn kết những người có đạo và không có đạo mà còn giáo dục tinh thần đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau.
-Về tự do TG-tín ngưỡng, người tôn trọng tự do tư tưởng, tôn trọng đức tin của mỗi người. Mọi công dân tin hay không tin tôn giáo đều được bình đẳng trên mọi lĩnh vực trước pháp luật. Đối với người sáng lập ra tôn giáo, Bác có thái độ tôn trọng, kính phục và khuyên mọi người theo gương các vị ấy đã sáng lập ra những tôn giáo lành mạnh trong việc đấu tranh giải phóng con người, hoàn thiện nhân cách con người. Đối với các giáo sĩ đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử cụ thể, phải phân biệt nhà tu hành chân chính với kẻ đội lốt thầy tu để phản nước hại dân. Vì vậy các giáo hội phải cùng nhân dân tham gia kháng chiến. Chủ tịch HCM tiến hành nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn những biểu hiện vi phạm tín ngưỡng tôn giáo chống những hoạt động lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo, đồng thời nghiêm khắc phê phán những sai phạm về chính sách tôn giáo.
3. Về luận điểm “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bào quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc”.
Hiện nay tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam đang ngày càng phát triển. Các tôn giáo lớn trên thế giới đều có mặt tại Việt Nam. 6 Tôn giáo lớn ở nước ta hiện nay là đạo Phật, Thiên Chúa, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Tôn giáo với tổng số tín đồ hơn 20 triệu người gần 1/4 dân số cả nước, nhìn chung tất cả đều có tinh thần gắn bó dân tộc. Các tổ chức giáo hội đều tuân theo Hiến pháp và pháp luật, đều mong muốn đất nước được ổn định và phát triển. Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung, các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đường hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật; các tôn giáo được Nhà nước công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Do vậy “tôn trọng và đảm bào quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc” được xác định là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên Đảng ta không cấm vấn đề phát triển TG, nhưng cũng không khuyến khích TG phát triển.
Từ nhận thức và vận dụng đúng đắn những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách tôn giáo, coi trọng công tác tôn giáo nhằm để xây dựng củng cố tình đoàn kết dân tộc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Quan điểm này đã được thể hiện trong Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị năm 1990; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa XH được Đại hội VII thông qua năm 1991; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 02/7/1998 của Bộ chính trị; Văn kiện Đại hội lần thứ VIII, IX, X. Trong các văn kiện trên Đảng ta đều xác định nội dung: “thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo … đoàn kết tôn giáo”. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã thể chế việc đề ra các chính sách phù hợp để tổ chức thực hiện.
Về nguyên tắc và chính sách đối với tôn giáo. Đảng ta xác định: Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của mọi công dân. Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân; Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân theo Hiến Pháp và pháp luật; Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích, phát huy; Mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, phương hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách toàn dân, chống lại Nhà nước Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân, đều bị xử lý theo pháp luật.
Về luận điểm “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt  đẹp của các tôn giáo”: Gần đây, vấn đề văn hoá và đạo đức tôn giáo được đề cập khá đậm nét trong các văn kiện cửa Đảng ta. Có thể nêu lên một số nội dung của văn hoá, đạo đức tôn giáo như sau:
- Trước hết, tuy cách diễn đạt có khác nhau, nhưng các tôn giáo đều có đường hướng hành động “tốt đời, đẹp đạo”, phù hợp với mục tiêu chung của dân tộc là góp phần xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Các tôn giáo đều khuyến khích con người làm việc thiện, tránh việc ác, xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
- Các lễ hội tín ngưỡng tôn giáo mang bản sắc văn hoá dân tộc, qua đó góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp của cha ông và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Các cơ sở và các hoạt động từ thiện của các tôn giáo đã và đang phát huy tác dụng tích cực nhằm góp phần giảm bớt những mất mát, bất hạnh của con người trong cuộc sống, qua đó góp phần giáo dục lòng bao dung, nhân hậu và vị tha của con người.
- Các tôn giáo có xu hướng tham gia ngày càng tích cực hơn vào việc giải quyết các vấn đề có tính thời sự toàn cầu như chống chiến tranh huỷ diệt, bảo vệ môi trường sống, chống đói nghèo và bệnh tật, bảo vệ nòi giống…
- Các tôn giáo trên thế giới và ở Việt Nam đã và đang để lại những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, đó là kho tàng của cải vô giá của nhân loại ngày càng được làm giàu thêm cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại.
- Đồng bào các tôn giáo đã và đang thực hiện phong trào đoàn kết xây dựng gia đình văn hoá, nếp sống văn minh, bài trừ tệ nạn xã hội, qua đó góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh.
Tóm lại, Tôn giáo là một phạm trù lịch sử, là vấn đề của ccon người trong đời sống hiện thực, nhưng còn tồn tại lâu dài, tôn giáo phải đồng hành cùng dân tộc. Việt nam là quốc gia đa TG, cho nên phải xem trọng việc đoàn kết các TG khác nhau, phải coi đây là tính chiến lược. Nắm được những nội dung cơ bản nhất về tôn giáo và chính sách tôn giáo đúng đắn, nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước./.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét